1. Đặc điểm sinh học của Lươn
- Lươn là loài động vật lưỡng tính sống ở nước ngọt thuộc họ nhà cá (Anguillidae). Lươn đồng hay lươn nước ngọt có tên khoa học là Fluta alba.
- Lươn có cấu tạo hình thái và cơ quan hô hấp khá đặc biệt: da trơn bóng không có vảy, hình dạng như rắn, thân tròn, đường kính từ 2 – 3 cm, thân dài từ 30 – 60 cm, có thể hô hấp qua xoang hầu, da và đôi lỗ mũi. Trong tuyến sinh dục có cả tinh nang lẫn noãn sào. Do đó lươn còn được gọi là loài lưỡng tính, theo nghiên cứu cho thấy tất cả lươn con đều là lươn cái. Nhưng sau khi sinh sản thì lươn cái đó dần biến thành lươn đực.
- Vì vậy có thể phân lươn đực và lươn cái dựa vào chiều dài thân lươn: lươn nhỏ hơn 20 cm thường là lươn cái, từ 22 cm trở lên bắt đầu chuyển giới tính dần, dài khoảng 35 – 45 cm thì số lượng đực nhiều hơn cái và dài hơn 55cm trở lên thì hầu hết là lươn đực.
2. Sinh trưởng
- Lươn ăn mạnh và lớn nhanh vào mùa hè. Mùa đông ít ăn hoặc ngừng ăn (đối với khí hậu miền Bắc), do đó vào mùa đông ở miền Bắc lươn sinh trưởng chậm hoặc ngừng sinh trưởng. Nhiệt độ dưới 15oC thì bắt đầu bỏ ăn, lạnh dưới 10oC thì tìm chỗ có bùn, hang để tránh rét và nhịn ăn. Nhiệt độ thích hợp từ 22 – 28oC. Lươn sẽ chết khi nhiệt độ trên 36oC.
- Lươn là loài ăn dơ nhưng ở sạch, pH thích hợp của lươn ở từ 6,2 – 6,5, nếu sống trong môi trường nước bẩn thì lươn dễ bị bệnh và chậm lớn.
- Sinh sản: Khi 8 – 12 tháng tuổi lươn có thể sinh sản được, mỗi lần lươn đẻ được từ 400 – 600 trứng. Mùa sinh sản thường bắt đầu từ tháng 5 âm lịch và kết thúc tháng 7 âm lịch, mùa kép rơi vào tháng 10 âm lịch (thường có ở lươn miền Nam).
3. Các hình thức nuôi: Hiện nay nuôi lươn gồm có những mô hình cụ thể sau:
a. Nuôi lươn trong bể xi măng hoặc ao lót bạt:
- Mô hình này là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, vì lươn mau lớn do không bị thay đổi môi trường sống tự nhiên vốn có của nó. Bể xây nên xây nữa nổi và nữa chìm với chiều cao khỏang 1m. Ao nuôi có thể được xây bằng ximăng hoặc đóng cọc tre và trải bạt vào ao, sau đó cho đất vào.
- Diện tích bể nuôi thường sử dụng là bể 4 x 10 m. Đối với bể này cần lót bạt nhựa khổ 6 m, dài 12 m. Với diện tích bạt như vậy sẽ tạo ra được một bể nuôi có diện tích 40 m2. Cần tạo lỗ thoát nước cho bể, đất cho vào bể nuôi lươn phải là đất sét hoặc đất thịt, không được cho bùn vào bể nuôi vì bùn sẽ làm cho lươn chậm lớn và hay mắc bệnh. Chiều cao của đất cho vào từ 0,4 – 0,6m, ụ đất được sắp cách bờ thành 0,5m để tạo rãnh thoát nước và là nơi cho lươn ăn. Mực nước cho vào bể thấp hơn đỉnh cao nhất của khối đất 0,2 m. Vĩ ăn có thể dùng nia hoặc vòng sắt có bao lưới đặt chìm trong nước (cách mặt nước 10 – 15 cm).
- Nuôi lươn bằng lục bình: Hình thức nuôi này cũng mang lại hiệu quả kinh tế nhưng thời gian xuất bán dài hơn so với nuôi đất từ 10 – 15 ngày. Điểm chú ý của mô hình này ta có thể tận dụng chuồng heo cũ trải bạt vào để nuôi hoặc trải bạt trong ao đất. Không nên trải bạt trên mặt đất như phương pháp nuôi trong đất vì nhiệt độ cao có thể làm lươn bị sốc nhiệt và chết. Cần tạo ống thoát nước có lỗ khoang nhỏ hơn thân lươn để khi thay nước lươn không ra ngoài được.
- Nuôi lươn bằng dây nylon: Đây là mô hình đơn giản nhưng cũng rất hiệu quả. Nhưng điểm cần chú ý là khi thả giống là: lươn nuôi bằng mô hình này phải được thuần hóa trước nếu đem lươn từ mô hình nuôi đất qua thì lươn dễ phát bệnh và bỏ ăn.
- Nuôi Lươn bằng rơm: Đây là cách cổ truyền nhưng bà con cần chú ý là rơm phải được ngâm lâu ngày và xả sạch, xả đến khi nào rơm hết ra màu thì thôi. Ao nuôi cũng được xây dựng và như mô hình nuôi lươn trong dây nylon.
- Nuôi lươn kết hợp với nuôi trùn quế: Đây là phương pháp nuôi theo cách của Thượng Hải - Trung Quốc. Phân bò được cho thành luống như luống khoai, để tránh phân bò không bị sạt lỡ ta có thể dùng gạch tấn sen kẽ xung quanh luống phân. Sau đó thả trùn quế vào, sau khi trùn phát triển thì thả lươn giống vào. Cách nuôi này cũng mang lại hiệu quả kinh tế vì không cần phải đầu tư chăm sóc. Nhưng thời gian nuôi rất dài vì trùn không sinh sản đủ cho lươn ăn. Có thể kết hợp cho ăn thêm thức ăn nhân tạo.
b. Nuôi lươn bằng ao đất:
- Chọn địa điểm đào ao gần nguồn nước sạch, chủ động cấp nước mới, thải nước cũ, chất đáy không bị chua phèn. Nên chọn nơi yên tỉnh, hạn chế tiếng ồn và bóng người qua lại.
- Diện tích: 50 - 500m2, độ sâu: 1 - 1,2m. Xung quanh bờ ao, hay trong khuôn viên đào ao nên để một phần đất làm vườn trồng cây bóng mát. Không nên trông các loại cây hay rụng lá ở sát bờ ao, lá sẽ rụng xuống ao làm ô nhiễm nguồn nước.
- Đáy ao có lớp cát hay bùn dày 15 - 20cm. Trong ao xây các hang bằng gạch hoặc tạo các ụ đất ở giữa để lươn trú ẩn.
4. Phương pháp cải tạo ao nuôi lươn
- Tháo cạn nước trong ao, dọn sạch cỏ cây xung quanh bờ ao, vét bớt bùn đáy ao, đắp lại bờ ao cho chắc chắn, sữa sang lại cống cấp và thoát nước.
- Dùng vôi bột rãi đều khắp đáy và bờ ao để diệt hết vi khuẩn gây mầm bệnh và điều hoà pH nước ao, lượng vôi bón từ 10 -15 kg/100m2. Bón vôi xong, phơi nắng 1 - 2 ngày cho các loại mầm bệnh chết hết, tiến hành cấp nước vào ao đạt 0,5 - 0,8 m.
- Nước lấy vào ao phải trong sạch, không bị ô nhiễm bởi các chất thải công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt, có lưới chắn ở cống để ngăn các loại rác theo vào ao nhằm hạn chế mầm bệnh và làm sạch nước ao nuôi.
- Thả bèo tây xuống ao để làm mát cho lươn.
5. Chọn lươn giống
- Giống lươn chọn nuôi phải có màu sắc tươi sáng, khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều, không xây xát, không dị tật dị hình.
- Nếu lươn giống được đánh tự nhiên bắt bằng cách chích điện hoặc dùng thuốc nhữ mồi thì lươn này rất khó nuôi, tỷ lệ sống rất thấp. Lươn giống có kích cỡ từ 20 – 30 con/kg thì thời gian nuôi từ 3 – 4 tháng là có thể thu hoạch. Lươn từ 30 – 40 con/kg thì thời gian nuôi từ 4 – 5 tháng. Lươn từ 40 – 60 con/kg thì thời gian nuôi từ 5 tháng trở lên.
- Hiện nay nguồn lươn giống được sản xuất nhân tạo rất nhiều ở các tỉnh phía nam. Tuy nhiên giá thành bán ra vẫn còn rất cao và tùy thuộc vào kích cỡ giống. Khi nuôi bằng nguồn lươn giống này thì sau 6 tháng có thể đạt cỡ thương phẩm và tiến hành thu hoạch.
6. Thức ăn
- Thức ăn của lươn có thể gồm: ốc, tép, cá tạp hay đầu cá, ruột cá mua ở các chợ, phụ phẩm của lò mổ. Ngoài ra, có thể cho lươn ăn thêm cám, bắp, khoai, đậu mì … trộn chung với thức ăn chính của lươn và cho ăn.
- Lượng thức ăn cho lươn ở giai đoạn đầu từ 3 – 4% trọng lượng thân, thời gian sau tăng dần lượng thức ăn lên 7%. Nhưng có thể căn cứ vào lượng thức ăn dư thừa mà tăng giảm thức ăn cho phù hợp.
- Đối với lươn giống của Trại thì lươn được thuần cho ăn 30% thức ăn viên, có thể ngâm thức ăn viên của cá da trơn vào nước cho mềm và xay chung với cá hay ốc rồi cho lươn ăn. Ngoài ra, cần phải có thêm bột gòn (hoặc bột keo) làm kết dính thức ăn để không làm rơi vảy thức ăn khi lươn ăn. Đồng thời cần bổ sung bột huyết, vitamin C và premix đặc chế dành cho lươn để giúp lươn mau lớn. Cho lươn ăn vào khoảng 17h – 20h đêm. Vì lươn thường ăn về đêm và nên đặt vĩ ăn ngập trong nước (ăn ngầm).
7. Quản lý ao nuôi
Lươn mới thả vào ao, hồ nuôi thường ít ăn, khoảng 3 – 4 ngày thì lươn mới bắt đầu ăn. Nên thay nước lươn 1 lần/ngày, nếu nước bẩn dễ làm lươn nhiễm bệnh. Khi cho nước mới cần cho vào nước 0,5 ml Bio For Fish hoặc Iodine trên 1 m3 nước để diệt khuẩn trong nước và thành bể (ngăn ngừa bệnh cho lươn). Nên canh mực nước trong bể nuôi, tránh trường hợp khi mưa lớn, nước dâng cao. hoặc bạt trải làm bể bị rách làm lươn thoát ra ngoài.
8. Thu hoạch: Sau thời gian nuôi khoảng 5 tháng, khi lươn đạt kích cỡ thương phẩm (150g/con trở lên) thì tiến hành thu hoạch. Có thể thu tỉa hoặc thu toàn bộ để bán và tiến hành vệ sinh ao để nuôi vụ tiếp theo.
9. Bệnh và cách phòng trị
Lươn là loài rất khỏe, ít mắc bệnh. Nếu quản lý nguồn nước luôn sạch thì đảm bảo việc nuôi lươn luôn thành công.
a. Bệnh sốt nóng: Do nuôi lươn với mật độ dày, lươn quấn vào nhau, các dịch nhày tiết vào trong nước, lên men, độ nhớt tăng lên làm nhiệt độ nước tăng, hàm lượng oxy giảm. Đầu lươn phồng ta, lươn chết hàng loạt. Đối với mô hình nuôi lươn trong ống nhựa hoặc dây nylon thường hay gặp trường hợp này.
Phòng trị: Nếu thấy hiện tượng này cần san thưa bể nuôi và cho nước sạch chảy tràn liên tục vào bể nuôi từ 2 – 3 giờ. Sau đó ngưng xả, đánh 1 ml Iodin + 3 ml Bio For Fish cho 1 m3 nước. Ngâm trong 3 giờ rồi xả ra, cho nước sạch vào. Sau đó dùng 7g vitamin C/1 m3 nước tạt đều vào bể để qua đêm rồi thay nước.
b. Bệnh lở lét: Do ký sinh trùng, vi trùng bám vào vết thương do xây sát.
Triệu chứng: Trên mình lươn xuất hiện vết tròn màu đỏ, lươn bơi lội không bình thường.
Phòng trị: Đem lươn ra bể riêng và ngâm lươn trong nước muối có nồng độ 0,5%, sau đó sát trùng toàn bể bằng Water Fresh theo liều của nhà sản xuất. Dùng 3 g Amoxilin/ 1 kg thức ăn, cho ăn liên tục 3 ngày.
c. Bệnh nấm thủy mi: Do ký sinh trùng gây nên, nhìn thấy có sợi hình bông bám vào mình lươn để hút chất dinh dưỡng.
Phòng trị: Ngâm lươn trong nước muối có nồng độ 5% trong 10 phút, sau đó thả lại bể. Nên dùng Bioxid For Fish sát trùng bể mỗi ngày.
d. Bệnh nhiễm giun (sán): Do lươn ăn thức ăn tươi sống, nên hay nhiễm giun. Ta phải định kỳ sổ giun cho lươn 3 tuần/lần. Thuốc trị giun sán dành cho cá và liều theo nhà sản xuất.
e. Bệnh đỉa: Do đỉa bám vào phần đầu lươn phá hoại mô và hút máu khiến lươn bị yếu kém ăn và vi trùng xâm nhập vào gây viêm nhiễm ảnh hưởng đến sinh trưởng.
Phòng trị: Dùng dung dịch Sulphate đồng 2,5g sulphat đồng/25 kg nước ngâm rửa 5 – 10 phút.
f. Bệnh tuyến trùng: Do ký sinh trùng đường ruột gây ra, tuyến trùng có màu trắng, dài khoảng 1 cm, đầu bám vào niêm mạc phá hoại mô, hình thành các nang bào gây viêm ruột sưng đỏ. Nếu ký sinh trên ruột với khối lượng lớn, lươn yếu, hậu môn sưng đỏ, sẽ chết dần.
Phòng trị: có thể điều trị bằng Bio Benzol và phòng bệnh bằng Bio Green Cut với liều lượng 1 lít/1.000 m3 nước) cần diệt mầm bệnh, ấu trùng ký sinh trước khi thay nước.